Quảng Trị là một vùng đất giàu có vốn văn hoá phi vật thể, trong đó văn
học dân gian có vị trí hết sức đặc biệt. Văn học dân gian Quảng Trị là sản phẩm
chứng tỏ sức sống mãnh liệt của dòng văn học truyền khẩu. Xét giá trị nội dung
và nghệ thuật, văn học dân gian Quảng Trị có những nét riêng, đóng góp cho văn
học dân gian Việt Nam thêm phần phong phú. Văn học dân gian bao gồm nhiều thể
loại (huyền thoại, huyền tích, tục ngữ, câu đố, truyện cười, tuồng hài…) song
phong phú,đa dạng và giàu màu sắc địa phương và có thể phân thành 4 mảng chính
là ca dao-dân ca, Tục ngữ-câu đố, Truyền thuyết-cổ tích-truyện trạng, hò vè
CA DAO - DÂN CA
Nói đến dân ca là nói đến phương thức diễn xướng (bao gồm cả hình thức
diễn xướng và môi trường diễn xướng) và các làn điệu. Dân ca lấy khung cảnh
làng quê, đồng ruộng, mái đình, giếng nước, cây đa… làm môi trường diễn xướng.
Ca hát gắn với con người từ khi lọt lòng đến khi nhắm mắt xuôi tay. Ca hát gắn
với lao động, với sinh hoạt giải trí vui chơi, với sinh hoạt gia đình, sinh
hoạt thôn xóm… Nhưng tuỳ nơi tuỳ lúc, tuỳ đối tượng sử dụng và thưởng thức mà
lúc nó được hát bằng hình thức tập thể, lúc thì chỉ một cá nhân biểu diễn.
Ca dao- dân ca của bất cứ miền nào trước hết cũng là tiếng ca của nghĩa tình,
tiếng nói của yêu thương. Trong sinh hoạt gia đình, làng xã, lúc làm việc cũng
như lúc nghỉ ngơi, khi tiếng nói của con tim đã đã ở cung bậc cao nhất, người
lao dộng dùng lời ca để bày tỏ tâm tình trước cảnh vật, trước những biến diễn
của cuộc đời và trao đổi tâm tình với nhau. Tính trữ tình, bởi vậy thấm đượm
trong nội dung lẫn âm điệu của các khúc hát dân gian. Một chút buồn thoáng qua
của con người trước cảnh vật:
Chim kêu ghềnh đá gẫm thân thêm buồn
Một tình cảm thành kính dâng lên cha mẹ:
Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi
Gạo de An Cựu mà nuôi mẹ già
Việc tìm kế sinh nhai nhưng người Quảng Trị luôn nhớ về quá khứ, nào
công cha, nghĩa mẹ vô bờ bến, tình nghĩa vợ chồng keo sơn, gán bó dù sông cạn
đá mòn:
Mẹ thương con qua cầu Ái Tử
Vợ trông chồng lên núi Vọng Phu
Một mai bóng xế trăng lu
Con ve kêu mùa hạ biết mấy thu gặp chàng
Tất cả những biểu hiện khác nhau của mối quan hệ giữa con người với con người,
tất cả những cung bậc phong phú, đa dạng, tinh tế của tình cảm con người, ca
dao – dân ca đã “thấu đến chân tơ kẻ tóc” (chữ dùng của Xuân Diệu) và đã nói
bằng một tiếng nói đằm thắm, sâu lắng, thiết tha. Tình cảm ấy mở rộng ra, nâng
lên thành tình cảm đối với quê hương đất nước, thành tình cảm giai cấp, nghĩa
đồng bào, và sau này trong thời đại mới là nghĩa quân dân, tình dân đối với
Cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ và tình nam Bắc ruột thịt. Những biểu hiện khác
nhau ấy của tình riêng, nghĩa chung trong ca dao – dân ca miền nào cũng có. Vấn
đề đặt ra là cần tìm ra những sắc thái riêng. “Những óng ánh riêng” trong cách
biểu đạt tình cảm của ca dao dân ca mỗi miền.
Tiếp xúc với ca dao – dân ca Bình Trị Thiên, ta thấy có nhiều cách biểu đạt
khác nhau về những khía cạnh tinh tế, phức tạp của tình cảm con người. Có bài
ca dao hết sức mộc mạc, mộc mạc như là lời ăn tiếng nói hàng ngày, diễn đạt một
tiếng long cũng hết sức giản dị, chân thực:
Đôi ta thương chắc mần ri
Bọ mẹ mần rứa, eng thì mần răng?
Có trường hợp là một tiếng nói mạnh mẽ, quyết liệt đấu tranh cho một
nguyện vọng, một ước mơ một sự trọn vẹn của nghĩa tình.
Thiếp thương chàng gươm vàng không sợ
Súng bắn chin, mười lần duyên nợ không buông.
Chẳng thà chịu tiếng cho luôn
Gươm trường kề cổ không buông nghĩa chàng.
Song nhìn chung tiếng trong ca dao-dân ca Bình Trị Thiên, dù mỗi vùng sắc thái
có khác nhau vẫn là tiếng nói đằm thắm giàu ân nghĩa chứ không thiên về rắn
rỏi, mạnh mẽ, quyết liệt hoặc quá mộc mạc, trần tục…Cách diễn đạt lại thường
nhẹ nhàng, bóng bẩy, có sự trau chuốt, gia công tỷ mỉ trong việc dùng chữ, đặt
câu (sắc thái này thể hiện rất rõ trong ca dao dân ca vùng Huế -Thừa Thiên)
Kháng chiến chống ngoại xâm là một nội dung khá quan trọng. Qua hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mỹ, ca dao dân ca Quảng Trị vẫn không ngừng phát triển để
đáp ứng yêu cầu của thời đại. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã vẽ nên những trang
sử oai hùng của dân tộc, cho Quảng Trị mà các địa danh Triệu Sơn, Ba Lòng, Như
Lệ là những nơi tiêu biểu cho phong trào kháng Pháp. Những nơi khác cũng đã
từng in dấu chiến tranh tàn phá như dãy Trường Sơn, sông Thạch Hãn, Bích La
Đông, An Hoà, Đại Hào, Phương Ngạn:
Ai về Bích La Đông khỏi lòng đau xót ruột
Ai về An Hoà khỏi hậm hực thù Tây
Mồ mả cha ông hắn cho xe xới, xe cày
Bao nhiêu oan hồn nước mắt nghĩ lại trăm đắng nghìn cay căm thù.
Cần ghi nhận là dân ca cũng theo thời sự mà chuyển biến, phát triển.
Chiến đấu để thống nhất, để được sống tự do, độc lập trên quê hương là
niềm tin mãnh liệt của người dân Quảng Trị thể hiện rõ từ thời kháng chiến
chống Pháp đến thời chống Mỹ. Ca dao dân ca Quảng Trị đã phản ánh một cách sinh
động ý chí và tâm tình thiết tha ấy.
Như vậy, sự thêm bớt chữ trong các câu ca dao Quảng Trị là không có quy tắc mà
hoàn toàn tuỳ theo cảm hứng của người hò, sao cho tròn ý nghĩa là được. Sự hợp
vần trong các dao thường thay đổi, hết gieo vần lưng lại gieo vần chân,
như quy luật hợp vần của thể lục bát và song thất lục bát, nhưng một số ít câu
ca dao của Quảng Trị lại có lối gieo ở vần chân.
Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao Quảng Trị cũng khá phong phú. Ta sẽ gặp ở đây
những loại từ đối nghĩa, đối ý trong dân ca đối đáp:
- Bánh cả mâm răng gọi là bánh ít
Trầu cả chợ răng nói trầu không
Trai nam nhơn đối đặng sẽ làm chồng nữ nhi
- Chuối không qua Tây răng gọi là chuối sứ ?
Cây không biết chữ răng gọi là thông ?
Nam nhơn đà đối đặng quyết làm chồng nữ nhi
Trong lời hò đối đáp, lối ứng xử thật thông minh:
Ngồi buồn nói chuyện trên non
Một trăm thứ cá có con không thằng
Khi chọc ghẹo nhau vẫn giữ lối văn nhã:
Em mở khuôn ra cho anh đúc lấy lượng vàng
Hoạ may may hoạ thiếp với chàng dùng chung
- Anh về thưa với hai họ rõ ràng
Mời thân nhân lại, em mở khuôn vàng cho coi
Quảng Trị là vùng đất thành lập sau khi nước ta đã định hình hàng nghìn năm
trước. Văn học dân gian vùng này là sản phẩm của những con người có gốc từ
Thanh Nghệ truyền vào. Qua cuộc sống chung với dân bản địa ở vùng đất mới, dần
dần con người ở đây mới tạo được một phong cách riêng. Sự giao lưu văn
hoá thế tất phải xảy ra. Ca dao là thể loại để lại những dấu vết rõ rệt trong
ngôn ngữ văn học
TỤC NGỮ - CÂU ĐỐ
Tục ngữ và câu đố là hai thể loại suy lý phổ biến ở Quảng Trị . Cũng
như ở các nơi khác, tục ngữ Quảng Trị được phân làm hai tiểu loại: Các câu phản
ánh kinh nghiệm của nhân dân về thời tiết và sản xuất. Các câu phản ánh kinh
nghiệm của nhân dân về đời sống xã hội. Đây là phần quan trọng nhất là
mọi người cần quan tâm khi viết về đề tài ca dao- tục ngữ
Nhìn chung, kinh nghiệm của nhân dân ở đau cũng tương tự như nhau. Ở Quảng Trị
có những câu tục ngữ phản ánh kinh nghiệm của nhân dân về thời tiết như sau:
Chớp ngã Cồn Tiên; Mưa liền một trộ; hoặc : Sấm Đầu mâu không cầu cũng đến.
Lại có những câu đề cập đến sản vật đặc biệt của từng địa phương. Chính qua
những câu tục ngữ này, chúng ta lại càng hiểu sâu sắc hơn văn hoá vật chất của
vùng đất Quảng Trị:
-Nem chợ Sãi, vải La Vang
-Khoai quán Ngang, dầu tràm Đại Nại
-Gạo Phước Điền, chiêng Sắc Tứ
- Khoai từ Trà Bát, quạt chợ Sông
-Cá bống Bích La, gà Trại Lộc...
Kinh nghiệm về đời sống xã hội có những câu thật xác đáng và thực tế:
-Chạy lóc xóc không bằng góc vườn
-Nhiều nghề cá trê húp nác(nước)
Người miền núi cũng bày tỏ kinh nghiệm của họ:
- Đừng mau phai như hoa Toang-a-rát
- Đừng chóng bạc như vôi
- Xách bầu phải xem quai
- Địu con phải xem vải buộc
- Làm cỏ phải xem cán nắm
Về hình thức nghệ thuật, các câu tục ngữ ở Quảng Trị thường hợp vần theo lối
yêu vận chứ không theo lối cước vận.
Câu đố Quảng Trị có thể phân thành những tiểu loại:
-Về những bộ phận cơ thể của con người
-Về những hoạt động của con người
-Về các con vật
-Về các loại cây trái
-Về các sự vật hiện tượng khác.
Qua những câu đố ấy, ta thấy được sự tinh vi trong những nhận xét về sự vật,
con vật sống cạnh người, như đố về con gà trống:
Đầu rồng, đuôi phụng cánh tiên
Ngày năm bảy mụ tối ngủ riêng một mình.
Hoặc con chó :
Khen ai nho nhỏ
Mắt tỏ như gương
Tối trời như mực
Biết người thương ra chào
Có nhiều khi sự liên tưởng vô cùng sâu sắc. Đố về cau, trầu, vôi có câu:
Hai cây cao đã nên cao
Một người dưới rào xa đã nên xa
Ba người họp lại một nhà
Kết duyên phu phụ duyên đà mặn duyên
Có thể nói sự thông minh dí dỏm, óc nhận xét tinh vi của người Quảng Trị đều
được thể hiện trong câu đố:
Da non mà bọc lấy xương
Lửa cháy trên đầu chúa chẳng thương
Đêm năm canh tiêu hao mình thiếp
Nghĩ đến đoạn trường nước mắt nhỏ sa
( Cây đèn sáp)
Một mẹ sinh đặng ngàn con
Trai có gái có , tài khôn rõ ràng
Mặt trời đã xế vàng vàng
Con xa ngái mẹ lại càng thương thay
Cách nhau đã bốn năm ngày
Con lại gặp mẹ mừng thay là mừng
(Phiên chợ Cam Lộ)
Một số câu đố khác theo lối "đố tục giảng thanh" cũng thường
được nhân dân Quảng Trị vận dụng để sáng tác.
TRUYỆN TRUYỀN THUYẾT - CỔ TÍCH - TRUYỆN TRẠNG
Truyền thuyết ở Quảng Trị phong phú, những truyền thuyết về tên đất, tên
làng, và kể lại sự nghiệp của những người có công khai sinh ra làng xã là khá
phổ biến trong dân gian. “Nguồn gốc Câu Nhi”, “ Nguồn gốc Như Lệ” là hai truyền
thuyết tiêu biểu giải thích làng xã Quảng Trị.
Các truyền thuyết về đền- tháp- miếu- chùa như “Sự tích tháp Dương Lệ và
tháp Trung Đan”, “ Đề Tương Hầu”, “ Miếu Tương Nghè”…đã vẽ lại một giai đoạn
lịch sử lâu đời lúc thần linh còn ngự trị khá sâu sắc trong tư tưởng của nhân
dân.. Qua các truyền thuyết đó, ta thấy được lòng tôn trọng văn hoá, biết ơn
những vị có công với đất nước, quê hương
Truyện cổ tích lại mang một nội dung khác. Đó là những chuyện phản ánh tâm
tư, nguyện vọng của con người, đề cập đến những tình cảm riêng tư trong sinh
hoạt cá nhân, gia đình và xã hội. Hệ tư tưởng nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc
trong các truyện cổ. Nhiều truyện nêu bật các đức tính chung thủy, hiền hậu,
đảm đang, cần kiệm. Truyện” Vác mía tìm dâu”, “Tình mẹ con” có mục đích khuyến
dụ thanh niên nam nữ giữ gìn và phát triển những đức tính ấy để bảo vệ tình
cảm, đạo đức trong cuộc sống gia đình. Truyện” Vợ làm quan cho chồng” đề cao
người vợ khôn ngoan cũng là truyện có khuynh hướng đạo lý… Có thể nói các
truyện cổ tích dân tộc kinh tại vùng đất Quảng trị dù phương thức diễn
đạt khác nhau, có truyện mang tính thần kỳ, có truyện mang tính khôi hài… nhưng
nhìn chung xu hướng trong các truyện cổ là đe cao đạo lý làm người.
So với truyện cổ dân tộc kinh thì truyện cổ miền núi Quảng Trị phong phú hơn.
Một số truyện cổ tích có tính suy nguyên luận như “ Sự tích sao hôm sao mai”
(taôi), “ Tình nghĩa gà vịt” (Vân kiều)…phản ánh sinh hoạt xã hội, có mục đích
khuyến giáo đạo lý làm người, đề cao sự chung thuỷ, phê phán những hạng xảo
trá, lừa đảo trong quan hệ gia đình, xã hội. Truyện cổ tích thần kỳ miền núi
khá hấp dẫn ở những yếu tố người thần, vật thần. Truyện “Con voi thần” hấp dẫn
ở nội dung độc đáo, thể hiện sự chất phác cùng sự dung dị trong nếp sống, nếp
nghĩ của dân tộc miền núi.
Tư tưởng bao trùm lên các truyện cổ là điều thiện thắng điều ác, tình yêu chung
thuỷ luôn được đề cao, những kẻ thống trị tàn bạo luôn bị lên án, cuối cùng bị
trừng phạt. Nghệ thuật xây dựng truyện được cấu trúc trên hai tuyến nhân vật
chính diện và phản diện, từ đó chủ đề truyện được bộc lộ.
Trong kho tàng truyện kể Quảng Trị, truyện cười cũng chiếm số lượng
lớn và vô cùng phong phú. Đặc biệt vùng đất Như Lệ khô cằn lại tập hợp một khối
lượng truyện cười đáng kể. Đáng chú ý hơn cả là truyện Trạng Vĩnh Hoàng. Nghệ
thuật kể truyện Trạng Vĩnh Hoàng tuy cũng dùng biện pháp khoa trương, phóng
đại, nhưng dựa trên cơ sở hiện thực như chuyện "Trâu đen trâu
bạc" là để phóng đại dưa hấu ở Vĩnh Hoàng, chuyện "Mắc cọp mà
cày" là để phóng đại việc người Vĩnh Hoàng ngày trước đi cày rất sớm và
vùng này cũng nổi tiếng có nhiều cọp như ở Thuỷ Ba. Về phương thức phóng đại,
người Vĩnh Hoàng không dùng lối trực tiếp mà diễn tả bằng lối gián tiếp. Để chỉ
quả dưa khổng lồ, họ không so sánh quả dưa đó với vật thể nào mà diễn đạt một
cách thông minh hơn: dưa mà đạn bắn vào mắc kẹt không ra được, cả đàn quạ chui
vào ruột khoét dưa ăn, rồi mang cả dưa lẫn quạ bay lên cao.
Truyện Trạng Vĩnh Hoàng đã nêu bật được bản sắc độc đáo của con người
Việt Nam ở Vĩnh Hoàng. Tuy là truyện Trạng nhưng vẫn có một giá trị hiện thực.
Đây không phải là những truyện bông lơn, nói láo một cách hời hợt dễ dãi mà
xây dựng từ những thành quả lao động và chiến đấu. Giá trị ấy cần phải
được khẳng định khi xét đến mối tương quan của nó với các loại truyện khác như
Trạng Quỳnh, Trạng Lợn...
Ngoài ra, một loại truyện khác mang tính chất vui tươi, hài hước, thú vị và nhẹ
nhàng là các giai thoại dân gian. Phần lớn những giai thoại này xuất phát từ
những cuộc hò đâm bắt, hò môi miếng. Có những giai thoại tập trung vào một nhân
vật như thợ Thiềm. Thợ Thiềm được lưu truyền trong dân gian nhờ tài năng, sự
thông minh nhanh nhẹn trong cuộc hò đối đáp, nhưng nhiều lúc, thợ Thiềm cũng
phải chịu thua trước nữ nhi.
HÒ VÈ
Hò địch vận ở Như Lệ vốn là biến điệu của hò mái nhì nhưng vang xa như
tiếng ngân vút cao mạnh mẽ phát ra từ con tim yêu nước nồng nàn. Tiếng hò Như
Lệ là nét độc đáo trong dân ca kháng chiến Quảng Trị, nó đã phát huy tác
dụng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ chống Mỹ, tiếng hò
kháng chiến lại được dịp vang xa. Nhiều câu hò hai bên bờ sông Bến Hải nói lên
niềm ước vọng đất nước thống nhất. Chính ở vùng này đã hình thành nên một bộ
phận văn học dân gian mang những đặc điểm riêng của một vùng đất bị chia cắt.
Sông Hiền Lương bên bồi, bên lở
Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương
Bao giờ giặc Mỹ hết phương
Bắc Nam sum họp con đường vô ra.
Vè là một thể loại kể chuyện bằng văn vần phổ biến ở Quảng Trị, phát triển mạnh
vào thế kĩ XIX. Vè Quảng Trị cũng như các nơi khác, phần lớn là những bài có
dung lượng vừa phải được sáng tác theo thể lục bát, hoặc tứ tự, song thất lục
bát. Một số bài nổi bật với nội dung mang tính xã hội sâu sắc. Đó là loại vè
thế sự. Vè "Mẹ Hẹ" là một sáng tác độc đáo. Hình thức sáng tác gần
như lối thoại kịch với lời đối đáp của hai nhân vật: cô Hẹ và quan huyện. Nội
dung bài vè kể lại câu chuyện cô Hẹ vào tuổi xuân tình phơi phới đã bị quan
huyện lừa phỉnh. Sau khi để lại một bầu thai cho cô Hẹ, quan huyện ấy đã tàn
nhẫn đuổi cô Hẹ ra khỏi nhà. Cô Hẹ nuốt hận trở về nhà mẹ. Sau khi sinh nở,
thấy cô vẫn còn xuân sắc, quan huyện lại giở trò tán tỉnh. Cô đã vạch trần thói
bạc tình, bạc nghĩa của tên quan này bằng một ngôn ngữ cay chua, mang sắc thái
địa phương đậm đà mà không phải bài vè nào cũng thể hiện được.
Xoay quanh thể loại này có những giai thoại mà mỗi khi quây quần bên ấm
chè xanh hoặc đôi phút giải lao nơi đồng áng thường được người dân truyền tụng.
Chuyện ông Bộ ở làng Gia Độ và O Thơi ở làng Xuân Thành là một trong số đó. Ông
Bộ là người nho nhã, có vốn nho học. Tuy đã có gia đình nhưng lại rất say mê hò
hát. Còn O Thơi là một gái chưa chồng, tài sắc vào đám nhất vùng thời ấy. Một
hôm, gặp O Thơi quang gánh di chợ qua cánh đồng giáp hai làng, ông Bộ nổi hứng
cất câu hò:
“ Buôn bán chi chi rày lời mai lỗ, vất quách thúng rỗ theo anh.
Một mai công toại danh thành, ta ngồi chung kiệu hành đó đây”
Không hề chần chừ nghĩ ngợi lâu, O Thơi cất giọng hò đối lại ngay lập
tức:
“ Chữ thánh hiền dược mấy pho mấy bộ, dám huênh hoang xuất lộ vi
hành? Một mai đỗ đạt thành danh, đã có O Tam thể nó đợi anh kết nguyền”
Ông Bộ đỏ mặt vì câu hò cay độc. Ai đời đường là một đấng trượng phu ra
rứa lại cho rằng chỉ có con mèo tam thể mới lấy anh!
Vẫn cái máu mê gái lại mê hò, một hôm vợ ông Bộ chuyển bụng sắp sinh,
nhà lại hết dầu, vợ ông bảo ông xuống chợ mua dầu. Vừa ra đến đầu ngõ gặp cô
Thơi đang đang mò cá. Hai người đối đáp đến nổi quên cả mặt trời đã xuống núi.
Bỗng ông Bộ cất lên một câu hò trêu chọc rằng:
“ Cảm thương cho Em sớm thì lăn đồng cạn, chiều lại lặn đồng sâu. Con
tôm con tép liệu được mấy đồng xu”.
O Thơi hò đáp lại:
“ Chứ làm ra năm trự mười đồng, trước ngon cơm anh sau lành áo mẹ để tỏ
tấm lòng nàng dâu”
Cũng cần đề cập thêm một nội dung khác cũng khá phong phú của vè Quảng Trị, đó
là vè kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm kéo dài bao nhiêu năm trên
đất Quảng Trị khô cằn là đề tài cho hàng trăm bài vè phản ánh những nỗi khổ cực
của người dân trong cuộc chiến tranh xâm lược, nêu bật tinh thần chiến đấu
ngoan cường của nhân dân ở một vùng đất có truyền thống đấu tranh.
Bao năm tháng qua, văn học dân gian Quảng Trị đã sống cùng nhịp
sống của dân tộc bằng tiếng nói hồn hậu, trung thực của mình, ngân vang bằng
giọng hò thiết tha, trìu mến thân thương cho đến ngày nay.
(Nguồn: Internet)
Không có nhận xét nào :
Nhận xét trên blog Người Ái Tử