Năm 2008 là cột mốc đánh dấu 450 năm lịch sử phát triển xứ Đàng Trong, kể từ khi Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng về dựng nghiệp theo hướng "Hoành Sơn Nhất Ðái". Ngay khi đặt chân lên đất Thuận Châu (năm 1558) Ðoan Quốc Công đã lập Dinh Trấn tại Ái Tử.
Dinh Trấn Ái Tử là thủ phủ khai nguyên cho cơ đồ mở nước của Chúa Nguyễn. Nhân sự kiện này cũng nên đánh giá lại vị trí chiến luợc của Ái Tử trong quá trình phát triển xứ Đàng Trong.
Sử chép khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa (tháng 11.1558) đóng tại gò Phù Sa, xã Ái Tử thuộc huyện Đăng Xương (tức huyện Triệu Phong ngày nay). Dân gian thì gọi vùng đất này bằng một tình cảm trìu mến gần gũi là Kho cây khế (theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim). Rồi sau đó thì dời qua làng Trà Bát, cách đó 2km. Ngày nay đi trên quốc lộ 1A từ Nam ra, qua khỏi cầu Thạch Lam 2km là đến khu vực Ái Tử, vẫn còn lại hình ảnh bãi cát dài ven sông.
Ái Tử còn được gọi là sa khứ chỉ là bãi cát khô khốc không phải là vị trí hiểm yếu với sông sâu núi cao để lập Dinh Trấn, tại sao Nguyễn Hoàng lại chọn? Nếu tính từ đèo Ngang trở vào còn biết bao địa thế phù hợp. Khi vượt qua đèo Ngang sao Đoan Quốc Công không dừng chân ở sông Gianh, không đóng quân ở sông Nhật Lệ, bên sông Bến Hải hoặc ở Cửa Tùng, một vùng đất trù phú ?
Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng là một nhà quân sự, từng thân chinh ra trận lập được nhiều công lớn với Chúa Trịnh nên không phải ngẫu nhiên mà chọn vùng đất cát này để làm thủ phủ. Trước hết phải có một đầu óc quân sự để nhìn ra thế đất, lòng người hòng được vạn đại dung thân. Ông đã sớm nhìn thấy vị thế của vùng "đất linh" là nơi hiểm yếu. Bao bọc Ái Tử một vòng cung Tây Nam, Tây Bắc là dãy núi Trường Sơn, núi Mai Lĩnh và vùng truông rú An Đôn. Trước mắt là sông Thạch Hãn, cách Cửa Việt, Cửa Tùng hơn 15km. Để phòng thủ chống trả với quân địch từ hướng biển đánh vào thì hai bên sông Thạch Hãn đã bố trí những tiền đồn rất vững chắc. Mùa hè, sông Thạch Hãn ở đoạn này rất cạn có thể lội bộ qua nên chiến thuyền của quân địch nếu có tiến vào cũng dễ mắc cạn, hơn nữa thủy chiến của Chúa Nguyễn rất giỏi. Về phía Nam, tiếp giáp với Ái Tử là Hải Lăng cũng là vùng đất của truông rú đầy dẫy những cơn bão cát. Nhìn ra hai đầu Nam Bắc suy gẫm về thế phòng thủ của mình, trước khi mất (1613) Chúa Tiên mới gọi người con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên mà dặn: Đất Thuận Quảng này, bên Bắc thì có núi Hoàng Sơn, sông Linh Giang, bên nam thì có núi Hải Vân và núi Bi Sơn, thật là một nơi trời cho để người anh hùng dụng võ. Vậy ta phải thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ để mà gầy dựng cơ nghiệp muôn đời.
Ngay khi đặt chân đến Ái Tử, Chúa Tiên đã cùng các tướng lãnh của mình hoạch định một thế phòng thủ quanh khu vực, thành lập 5 đại binh đóng ở 5 làng chung quanh: Trung kiên, Tiền kiên, Hậu kiên, Tả kiên, Hữu kiên. Đã 450 năm dâu bể qua đi, những tên làng này đến nay vẫn còn.
Bốn trăm năm mươi năm sau, tôi về lại Ái Tử, đi dọc triền sông Thạch Hãn lên Trà Bát, Phước Mỹ vẫn còn dấu tích hoàng thành đã tàn lụi, lòng bỗng dâng mối cảm hoài thiên cổ, thấy trong gạch đá trường thành niềm thương cảm về dấu xưa xe ngựa, một thời đã hoang phế. Lịch sử cũng cần phải công bằng. Tại sao người đời nay lại quên đi việc lập bia đá để vinh danh cho Ái Tử, một chứng tích quá đỗi hào hùng của dân tộc, gắn liền với lịch sử phát triển xứ Đàng Trong và tên tuổi của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng phải được đặt tên trường, tên phố để con cháu đời sau biết ơn vị anh hùng, đã từng sống chết trên đất này.
|
Ngoài yếu tố thiên thời, địa lợi thì Ái Tử còn là vùng đất nhân hòa. Những cư dân bản địa phần nhiều từ Thanh Nghệ vì bất mãn chế độ hà khắc của Chúa Trịnh mà vào lập nghiệp, có lúc đã nổi loạn. Vì thế, khi Nguyễn Hoàng xuất hiện, thì nhân dân đồng tình ủng hộ. Sử chép, khi Đoan Quốc Công đến Ái Tử thì Luân Quận Công Tống Phước Trị liền đem sổ sách Thuận Hóa trao nạp và ở lại giúp việc bên cạnh quan Trấn Vũ mới. Còn dân sở tại lại đem dâng 7 vò nước trong, Nguyễn Ư Dĩ mới nói với Đoan Quốc Công rằng: "Ấy là điềm trời cho ông nước đó..." Cũng chính trong trận đánh giết chết tên tướng nhà Mạc là Lập Quận Công Lập Bạo(1572 ) đã có một thị nữ sở tại là Ngô Thị Ngọc Lâm vâng lệnh Chúa đã hy sinh phẩm tiết của mình nhằm thực hiện kế sách mỹ nhân kế mà giết Lập Bạo. Dân gian kể lại rằng, trước đó thần sông trong chiêm bao đã báo mộng và hiến kế mỹ nhân cho Đoan Quốc Công để sau đó giết được tướng giặc hung bạo. Có thể đó là huyền sử nhưng thử hỏi có huyền sử nào không sinh ra từ lòng ngưỡng mộ. Và sau đó, Chúa đã phong cho thần sông là Trảo Trảo Linh Thu Phổ Trạch Tướng hựu phu nhân và lập đền thờ bên sông, đến nay vẫn còn. Năm 1570, Thụy Quận Công Nguyễn Phúc Nguyên dời dinh sở về làng Trà Bát (nay là Trà Liên) cách đó 2km, sự xê dịch cũng chỉ trong một khu vực. Sách Phủ biên tạp lục miêu tả: Trấn dinh cũ của họ Nguyễn ở phía Tây sông Ái Tử, từ dinh mới ra đường cái, sang cầu Ái Tử nửa khắc là đến nơi... Đến năm Bính Dần (1626) cho dời dinh vào làng Phúc An (Quảng Điền, Thừa Thiên bây giờ) và chính thức từ sau khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng hiệu là Võ Xương, chia xứ Đàng Trong làm 12 dinh, Ái Tử trở thành cựu dinh và Phú Xuân trở thành chính dinh. Thời kỳ này Dinh Cát (Ái Tử) được nâng cấp là thủ phủ của một đơn vị hành chánh phong kiến ngang hàng với Phú Xuân. Dinh Cát còn được gọi là Phủ Toàn Thắng, tên gọi còn có nghĩa như một tụng ca mà những vị Chúa đời sau luôn trân trọng, nặng nghĩa tình với một kinh đô trong bước đầu khai dựng cơ đồ.
Chúa Tiên và Chúa Sãi là những người gắn chặt với Ái Tử suốt giai đoạn từ 1558 đến 1626. Thời của 2 Chúa thì đời sống nhân dân rất ổn định và được cải thiện đáng kể. Đại Nam Thực Lục Tiền biênchép: Đoan Quốc Công vũ trị vài mươi năm chính trị khoan hòa thường ra ân huệ, dùng pháp luật công bằng, răn giới bản hộ, dân 2 trấn cảm mến ân đức, dời đổi phong tục, chợ không 2 giá, dân không ăn trộm... thuyền buôn ngoại quốc đến buôn bán, quân lệnh nghiêm túc, dân trong xứ đều an cư lạc nghiệp. Còn tác giả Phủ Biên Tạp Lục dù viết dưới hệ tư tưởng phong kiến triều Lê đối nghịch cũng thừa nhận: Đoan Quốc Công có uy lược, xét kỷ nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Dưới thời 2 vị Chúa, dân ở Ái Tử ngoài công việc đồng áng, chăn nuôi đã biết nấu đường trắng và đường đen, biết trồng mía lấy mật và nước đường để trộn với hồ xây dựng thành trì, kho tàng. Các làng bên cạnh sông Thạch Hãn như Xuân Yên, Trung Kiên đã có lò vôi hàu... Người dân quanh vùng Ái Tử cũng rất kính trọng và yêu quý Chúa Sãi, đến nỗi sau này nhân dân đã đặt tên hiệu của Chúa cho một ngôi chợ ở làng Hậu Kiên (nơi có nhà lưu niệm của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn bây giờ), đó là chợ Sãi...
Dù Ái Tử trở thành cựu dinh nhưng các vị Chúa của nhà Nguyễn đều dành tình cảm ưu ái cho thủ phủ khai nguyên. Thời ấy các Chúa đã cho dựng văn miếu ở làng An Đôn sát cựu dinh. Năm Gia Long thứ 13 (1814) dời đến xã Thạch Hãn huyện Hải Lăng. Năm Minh Mạnh thứ 21 (1840) lại dời về chốn cũ (theo Đại Nam nhất thống chí). Đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát năm thứ 2 (1739) đã cho xây dựng Chùa Tịnh Nghiệp ở Ái Tử, đến đời Gia Long đổi thành Tịnh Quang, là ngôi cổ tự có từ rất sớm trên đất Ái Tử, sau này được phong là Sắc tứ Tịnh Quang Tự, người dân vẫn quen gọi là Chùa Sắc Tứ, ý là được vua ban sắc dụ làm quốc tự.
Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) nhân ngự giá Bắc Thành khi đi qua sông Ái Tử, vua đã dừng lại cảm khái đề thơ, sau được chạm khắc vào bia đá dựng ở tả ngạn bờ sông. Trong đoàn tháp tùng còn có 2 nhà thơ Tùng Thiện Vương, Tương An Quận Vương hộ giá, nhà vua không quên nhắc với con cháu niềm tri ân với cố kinh của nhà Nguyễn.
Rõ ràng Ái Tử đã trở thành một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng trong lịch sử phát triển xứ Đàng Trong. Từ quy luật tồn tại và phát triển của một triều đại, phải lo chống chọi với biết bao gian khổ và mất mát với vua Lê, Chúa Trịnh, quân nhà Mạc ở phương Bắc, thế mà Nguyễn Hoàng vào năm 1611 từ Dinh Trấn Ái Tử đã thân chinh vào đánh nước Chiêm Thành lấy đất lập ra Phủ Thủ Yên, chia ra làm 2 huyện là Đông Xuân và Tuyên Hóa. Khát vọng cháy bỏng và quyết liệt trong tâm can của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã truyền lửa cho các thế hệ đời sau cái hoài bảo lớn lao để tiếp tục mở mang bờ cõi về phươngNam. Nếu từ năm 1471, khi Lê Thánh Tôn đánh thọc sâu vào tận núi Thạch Bi thì biên giới nước ta mới đến Phú Yên, cuộc trường chinh này ngàn năm mới chỉ đến đó nhưng chỉ hai trăm năm (tính từ 1558 đến 1759) dưới thời các Chúa Nguyễn thì nước ta đã dài rộng một giải hình chữ S. Công trạng mở nước ấy cổ lục vẫn còn ghi.
(báo Du lịch)
Không có nhận xét nào :
Nhận xét trên blog Người Ái Tử